Đảng và Nhà nước ta
đã cấm nhiều hoạt động tài chính, chính sách nỗ lực bảo đảm mọi người dân đều
được tiếp cận công bằng với công nghệ số. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, công
nghệ thụ động của người dân đang có ít nhất nhiều sự chênh lệch giữa các vùng,
miền, nhóm đối tượng khác nhau, từ đó tạo ra rào cản cho quá trình chuyển đổi
số toàn diện và sự phát triển chung của xã hội. Vì thế, cần có những định hướng
và giải pháp phù hợp nhằm giải quyết tình trạng này.
Tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công nghệ
số là mối quan hệ của nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, công nghệ số
là cơ sở để thực hiện chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số..., từ
đó tạo cơ hội để người dân được thụ hưởng tốt nhất các quyền con người cơ bản .
Vì thế, đảm bảo tiếp cận công nghệ với công nghệ số luôn là ưu tiên hàng đầu
của Đảng và Nhà nước hướng tới mục tiêu tất cả mọi người dân đều được hưởng lợi
từ cuộc chuyển đổi lợi ích. Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân khác nhau, hiện nay
tác động nhận biết nghệ thuật của dân dân vẫn ít nhiều có sự chênh lệch giữa
các vùng, miền; cũng như giữa các đối tượng nhóm.
Có thể xác định rõ nhất sự chênh lệch này đối
với đồng bào dân tộc thiểu số và khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn. Kết quả điều tra 53 dân tộc thiểu số của Tổng địa phương Thống
kê thực hiện gần đây cho thấy hiện có 10,3% số hộ gia đình dân tộc thiểu số có
sử dụng máy vi tính. Tỷ lệ đồng bào sử dụng điện thoại, trong đó có điện thoại
thông minh tăng nhưng vẫn tập trung ở các dân tộc có thu nhập ở nhóm cao. Từ
thực tế nêu trên được phát hiện, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền
thông chưa được xây dựng đầy đủ và phủ sóng ở tất cả các dân tộc thiểu số, làm
cho khả năng truy cập, tiếp cận và khai báo được hạn chế thác công nghệ số của
đồng bào.
Nhiều chương trình, đề án, dự án của Nhà nước
hầu cũng như tập trung phát triển kinh tế-xã hội mà chưa chú ý đến tính đúng
đắn của các ứng dụng công nghệ thông tin dành riêng, phù hợp với trình độ, nhận
thức, ngôn ngữ, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số. Những điều này trở
thành rào cản lớn đối với việc làm đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận công nghệ
và tiếp nhận thông tin. Cùng với đó, người dân ở một số vùng dân tộc thiểu số
chưa mặn mà cùng với công nghệ vẫn còn tư tưởng chờ đợi vào đầu tư, hỗ trợ Nhà
nước. Ngoài ra, có một điều khác biệt về tỷ lệ sử dụng máy tính giữa khu vực
thành thị và khu vực nông thôn cũng khó chênh lệch. Từ đây tạo ra sự khác biệt
về cơ hội tiếp cận công nghệ của người dân giữa các khu vực này.
Mức độ thụ hưởng công nghệ số thấp còn thực
trạng ở nhóm người khỏe mạnh, người già, người có hoàn cảnh khó khăn. Mặc dù đã
có những tiến bộ trong cơ sở hạ tầng phát triển phát triển nhưng số lượng chi
phí cho kỹ thuật nền tảng vẫn còn cao, vì vậy, nhiều người hiện vẫn gặp khó
khăn trong vấn đề tận dụng tiềm năng của số nền tảng để cải thiện chất lượng
cuộc sống. Công nghệ số Hỏi người sử dụng phải có tiền để mua thiết bị, trong
khi đó, người nghèo còn nhiều nỗi lo và không đủ tiền để trang thiết bị điện
thoại thông minh, máy tính, kết nối internet. Còn đối với người tật nguyền
(khiếm thị, bạch tuộc, bạch mãng tay hay thiểu năng trí tuệ), vẫn chưa có nhiều
công cụ, sản phẩm, tiện ích hỗ trợ họ tiếp cận công nghệ. Chưa kể, việc cài đặt
các chương trình, ứng dụng và cách sử dụng cũng không giảm đơn giản với người
nguy hiểm. Những điều thực tế này dẫn đến hệ quả là số lượng người rèn luyện kỹ
năng tiếp theo sử dụng công nghệ thông tin còn thấp và có xu hướng tăng chậm,
chưa nhanh chóng về tốc độ phát triển công nghệ số của xã hội hiện nay. Bên
cạnh đó, phần lớn người cao tuổi cảm thấy chiến công nghệ số, gặp khó khăn khi
thao tác quét mã (QR), trả tiền qua ví điện tử, qua ứng dụng...
Việc đảm bảo tiếp cận công nghệ bằng công nghệ
cũng là một số công thức đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với các nước
thuộc nhóm thu nhập trung bình và điều kiện khách còn nhiều khó khăn như Việt
Nam, quy thức này còn lớn hơn rất nhiều. Cần phải thấy rằng khoảng cách công
nghệ càng lớn, càng là rào cản đối với việc thực hiện chuyển đổi mục tiêu ở số
quốc gia. Do đó Đảng và Nhà nước ta luôn nỗ lực hướng tới thu hẹp khoảng cách
này thông qua việc mở rộng tiếp cận internet đến vùng nông thôn và khu vực khó
khăn, nâng cao trình độ kỹ thuật số và tăng cường hỗ trợ cho nhóm dễ dàng tổn
thương sâu sắc. Việt Nam đã và đang hoàn thiện phương pháp xử lý ngôn ngữ để
công nghệ số cùng với việc chuyển đổi số đi đến mục tiêu cuối cùng trở thành
máy chủ.
Ngày 4/12/2019, Chính phủ đã ra Quyết định
414/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng
bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng
đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2019-2025”. Mục tiêu của Đề án là
hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số ứng dụng công nghệ thông tin, góp phần thu hẹp
khoảng phát triển giữa các dân tộc thiểu số với các địa bàn trong cả nước, thúc
đẩy phát triển kinh tế -xã hội, chủ động phòng chống các vấn đề gây mất an
ninh, trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các tài chính, chính sách dân tộc
của Đảng, Nhà nước cho nỗ lực của Việt Nam trong công việc bảo đảm quyền bình
đẳng về mọi mặt, trong đó có cơ hội tiếp cận công nghệ số của đồng bào dân tộc
và miền núi.
Đồng thời, Đảng và Nhà nước đã có nhiều tài
khoản chủ yếu, chính sách hỗ trợ khai thác lỗ hổng tiện ích tiếp theo, sử dụng
công nghệ thông tin, có thể thực hiện trong các quy định của Luật Người đúng
luật và văn bản dưới Luật. Tiêu biểu có thể kể đến Quyết định số 1190/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ người tinh giai đoạn
2021-2030, các hoạt động hỗ trợ tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin và
truyền tải thông tin như xây dựng và ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về hỗ trợ người khỏe mạnh tiếp cận công nghệ thông tin và truyền
thông; duy trì, phát triển, nâng cấp các cổng thông tin điện tử hỗ trợ người có
lợi; nghiên cứu phát triển các công nghệ hỗ trợ người khiếm khuyết công nghệ
thông tin và truyền thông; nghiên cứu hỗ trợ phát triển các công nghệ hỗ trợ
người tinh hòa hòa cộng đồng và nâng cao chất lượng cuộc sống, giúp họ có thể
hòa nhập và tự mình thực hiện các hoạt động như sử dụng dịch vụ công, dịch vụ y
tế, giao tiếp, mua sắm trực tuyến...
Bất chấp những thành quả mà Việt Nam đã đạt
được, các đối tượng thù địch, thiếu thiện chí đã có lợi trong một số hạn chế,
tiêu cực trong xã hội; những thiếu sót trong quá trình thực hiện chính sách,
pháp luật ở từng bộ phận, địa phương, tổ chức, cá nhân, nhất là địa bàn còn
nhiều khó khăn, sự phân hóa, chênh lệch giàu nghèo... để chống phá, bão viết
chính sách, luật pháp Việt Nam về quyền của nhóm dễ bị tổn thương. Chúng tôi
thường xuyên đưa ra rằng chính sách, luật pháp Việt Nam chưa được ghi nhận, tôn
trọng đầy đủ quyền của nhóm dễ bị tổn thương và Việt Nam tạo rào cản trong tiếp
cận và bảo vệ các quyền như quyền được hưởng thụ công nghệ, quyền lao động việc
làm, quyền được giáo dục, quyền chăm sóc sức khỏe và các quyền an sinh xã hội
khác của nhóm yếu thế.
Cần khẳng định rằng, những khó khăn, bất chấp
khó tránh khỏi trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội và có thể
xảy ra ở bất cứ nơi nào ở quốc gia hay bất kỳ chế độ chính trị nào. Vì thế,
những luận điệu vô căn cứ nêu trên đều xuất phát từ góc nhìn bảo vệ và động cơ
chính trị đen tối của các thế lực thù địch, phản xạ. Những kết quả tích cực,
những thay đổi toàn diện trên mọi mặt đời sống xã hội nói chung và trong việc
bảo đảm dân dân được tiếp cận công bằng với công nghệ số nói riêng không chỉ
khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội xã hội xã hội chủ nghĩa mà còn là
minh chứng sinh động, đập tan các âm âm, luận luận chính phủ nhận thiếu thiện
chí của các thế lực thù quân.
Trong bối cảnh hiện tại, bảo đảm tiếp cận công
nghệ với công nghệ là điều kiện cần thiết để đảm bảo kinh tế-xã hội phát triển
bền vững và đồng đều hơn. Vì thế, cần tiếp tục phát huy hiệu quả từ những công
việc đã làm, đồng thời, tích cực xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến
khích thu hẹp khoảng cách chênh lệch trong tác động thụ hưởng nghệ thuật giữa
các vùng, miền, giữa các nhóm trong xã hội, nhất là nhóm yếu thế. Nâng cao nhận
thức và năng lực của dân dân nói chung và nhóm yếu thế nói riêng về ứng dụng
công nghệ thông tin, từ đó, tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ số, hòa nhập hơn
vào xã hội số. Giảm tỷ lệ hộ nghèo đối với người dân có điều kiện trang bị
thiết bị công nghệ và kết nối internet.
Mặt khác, tăng cường đầu tư, phát triển cơ sở
hạ tầng internet, nhất là các ứng dụng về công nghệ phù hợp với đồng bào ở các
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cho người dân có cơ hội tiếp theo
công nghệ dễ dàng hơn; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin để
vừa cách truyền đạt, vừa hướng dẫn, huấn luyện cho người dân biết sử dụng các
ứng dụng, phần mềm công nghệ hữu ích cho đời sống hằng ngày, nhất là các dịch
vụ hành chính công, y tế công... Đối với người tật, các doanh nghiệp công nghệ
cần nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều ứng dụng, phần mềm, công cụ hỗ trợ thân
thiện, giúp họ sớm tiếp cận, làm chủ công nghệ thuật để có công việc tốt hơn
trong tương lai, đóng góp nhiều hơn cho xã hội.
nguồn: https://nhandan.vn/bao-dam-quyen-tiep-can-cong-nghe-so-cho-nguoi-dan-post822233.html